Thiết kế logo - Nhận diện thương hiệu
“Chan hòa và hứng khởi, là bản chất lôi cuốn của màu Pantone 16-1546 - Living Coral như mời gọi và khuyến khích những hoạt động vui vẻ,” Pantone chia sẻ.
Viện màu Pantone đã chọn một màu cam đào có tên là Living Coral, hay là Pantone 16-1546, là màu chủ đạo trong năm 2019 của Pantone.
Ngày 06 tháng 12 vừa qua, Living Coral được Pantone miêu tả như một “sắc san hô sôi nổi và tươi sáng với tông màu vàng mang đến nguồn năng lượng và sự sinh động ở một khía cạnh mềm mại hơn”.
“Chan hòa và hứng khởi, bản chất lôi cuốn này của màu Pantone 16-1546 - Living Coral mời gọi và khuyến khích những hoạt động vui vẻ,” Pantone chia sẻ.
Tiếp nối màu sắc của 2018 là Ultra Violet, được Pantone mệnh danh là một "sắc thái màu tím đầy gợi cảm và suy tư", sắc màu cam vàng rực rỡ của năm nay nhằm phản ánh “nhu cầu vốn dĩ về tinh thần lạc quan và theo đuổi niềm vui” để đáp ứng thực tiễn về truyền thông xã hội và công nghệ kỹ thuật số.
“Phản ứng trước sự tấn công mạnh mẽ của công nghệ số và phương tiện truyền thông xã hội ngày càng thâm nhập vào đời sống thường nhật, chúng ta đang tìm kiếm những trải nghiệm chân thực cho phép chúng ta cảm nhận kết nối và thân thuộc,” Pantone giải thích.
Màu sắc này cũng được cho là để chỉ ảnh hưởng sinh dưỡng của san hô đối với hệ sinh thái đại dương, cũng như tác động “tàn phá” của xã hội ngày nay lên môi trường.
Pantone giới thiệu màu của năm vào mỗi tháng 12 hàng năm, dựa trên nghiên cứu dự báo xu hướng từ Viện màu Pantone.
Màu sắc này được lựa chọn dựa trên “những gì đang diễn ra trong văn hóa toàn cầu tại thời điểm đó”. Cũng theo Pantone, Living Coral đang là tâm điểm trên các sàn catwalk trong các show diễn thời trang, cũng như trên mạng truyền thông xã hội.
Theo Pantone, Living Coral đang là tâm điểm trên các sàn catwalk trong các show diễn thời trang |
“Màu sắc là một thấu kính cân bằng mà qua đó chúng ta trải nghiệm những thực tế trong tự nhiên cũng như kỹ thuật số và điều này đặc biệt đúng với Living Coral,” Leatrice Eiseman, Giám đốc điều hành của Viện màu Pantone cho biết.
“Với những người tiêu dùng khao khát sự tương tác giữa người với người và sự kết nối xã hội, những phẩm chất nhân văn và nồng nhiệt được thể hiện bởi màu Living Coral hấp dẫn đã tạo nên một bản hợp âm dễ chịu,” bà chia sẻ thêm.
Viện màu Pantone đã bắt đầu lựa chọn màu của năm từ năm 1999. Năm ngoái, một màu tím rực rỡ đã được lựa chọn, và năm 2017, một sắc xanh lá đầy nhiệt huyết có tên là Greenery. Năm 2016, Pantone đã chọn 2 màu êm dịu là - xanh baby và hồng tro. Các màu sắc này thường là màu đậm. Những ví dụ khác gần đây bao gồm: màu hồng tím Radiant Orchid vào năm 2014, và màu cam sáng Tangerine Tango vào năm 2012.
Nguồn Designs.vn
20% ý tưởng nằm ngoài
sự giám sát quản lý chính thống và sẽ luôn như vậy, vì những người sáng tạo và
tài năng nhất không thể bị ép làm việc được.
Designer
luôn cần thời gian và không gian để làm việc nhưng môi trường làm việc hiện nay
đôi khi không đáp ứng được những nhu cầu đó.
8 tiếng làm việc mỗi ngày, chúng ta
có nhiều cơ hội để sản sinh thật nhiều ý tưởng với điều kiện: có đủ thời gian,
không gian và sự yên tĩnh. Tuy nhiên sự thật là môi trường làm việc hiện nay
hoàn toàn không hiệu quả với designer.
Thời
gian là trải nghiệm và đó là thứ chúng ta đang thiếu
Công việc của designer là kết nối
mọi thứ từ những trải nghiệm thiết thực. Nói đơn giản, ý tưởng mới là sự kết
nối của trải nghiệm.
Designer hầu như không có thời gian
cho những trải nghiệm mới trong một ngày làm việc. Tiêu chuẩn làm việc thông
thường của xã hội là ở văn phòng cả ngày, ngồi yên tại bàn, thỉnh thoảng đi họp
và vội vã về văn phòng khi họp xong. Thời gian nào để chúng ta suy nghĩ, tìm
kiếm, trải nghiệm ý tưởng mới?
Designer vốn luôn thiếu trải nghiệm
nhưng vẫn phải tìm nguồn cảm hứng mỗi ngày, chúng ta cam chịu và cố gắng hoàn
thành công việc.
Tuy nhiên, cảm hứng lại thường đến
từ việc lắng nghe các câu chuyện qua sự quan sát thế giới bằng đôi mắt của
người khác chứ không phải của chúng ta. Do đó, designer phải bó buộc thời gian
rảnh để theo đuổi trải nghiệm. Một designer trẻ tuổi nhận ít việc và xem công
việc là một phần quan trọng của danh tín sẽ thấy không vấn đề gì. Tuy nhiên,
khi designer có nhiều việc phải làm ngoài giờ hành chính, họ sẽ càng khó có
thời gian để sản sinh ý tưởng.
“Người sáng tạo là người luôn muốn biết mọi
thứ.
Họ muốn biết về lịch sử cổ xưa, toán học thế kỷ 19,
Họ muốn biết về lịch sử cổ xưa, toán học thế kỷ 19,
kỹ thuật sản xuất thời nay, cách trồng hoa và giao dịch mua bán.
Vì họ không biết bao giờ ý tưởng sẽ xuất hiện.
Có thể là 6 phút, 6 tháng hay 6 năm.
Nhưng họ có niềm tin ý tưởng sẽ đến.”
Vì họ không biết bao giờ ý tưởng sẽ xuất hiện.
Có thể là 6 phút, 6 tháng hay 6 năm.
Nhưng họ có niềm tin ý tưởng sẽ đến.”
- Carl Ally
Tôi là một designer và tôi vật lộn
với tiêu chuẩn làm việc hiện nay. Vì sao phải như vậy? Vì sao designer không có
nhiều tự do hơn và được tin tưởng sẽ làm tốt hơn?
Dù đang trong thời đại được xem là
tiến bộ về tư duy, chúng ta vẫn tiếp tục đặt nặng công sức hơn
là thành phẩm, tức là thời gian một người dành cho công việc sẽ
quan trọng hơn sản phẩm của họ. Có nhiều lần tôi ngồi trên bàn làm việc và
không hiểu vì sao tôi lại muốn xem phim. Dĩ nhiên, tốn hai giờ một ngày để xem
phim chẳng khác nào vả vào mặt đồng nghiệp, vì cả hai hành động đều sẽ bị kỷ
luật. Nhưng nếu tôi có tự do để xem phim Funny Face thì sao? Những kết nối kỳ
lạ nào sẽ có thể được hình thành trong giờ nghỉ, khi tâm trí tôi tiêu khiển bởi
thanh âm quyến rũ của Geogre Gershwin cùng chuyển động duyên dáng của Fred
Astaire? Ai mà biết được.
Audrey Hepburn và Fred Astaire trong
Funny Face của Richard Avedon
Người làm sáng tạo trong ngành quảng
cáo được tặng vé xem phim và tham quan bảo tàng, thậm chí, họ còn được khuyến
khích sử dụng chúng. Nhiệm vụ của họ là chuyển đổi văn hóa thành thông điệp mà
thương hiệu dùng để thuyết phục người tiêu dùng. Họ cũng kết nối trải nghiệm để
sinh ý tưởng như designer. Nhưng các agency đối xử thế nào với designer trong
“thời gian chết” của mỗi dự án? Họ bắt designer làm các việc tào lao và giết
chết cảm hứng ít ỏi ấy.
Tại Google, có sáng kiến là 20% thời
gian của nhân viên được dùng để làm bất cứ việc gì họ nghĩ là có ích cho công
ty. Một số dự án tuyệt vời bắt đầu từ 20% quỹ thời gian đó. Bây giờ, sau nhiều
năm ban hành, có nguồn tin cho rằng rất ít nhân viên ở Google sử dụng thời gian
theo cách ấy. Có lẽ họ có nhiều việc cần làm và không cần ai giúp đỡ quản lý?
Trưởng bộ phận điều hành nhân sự ở Google, Laszlo Bock và tác
giả của Work Rules! giải thích rằng 20% ý tưởng “nằm ngoài
sự giám sát quản lý chính thống và sẽ luôn như vậy, vì những người sáng tạo và
tài năng nhất không thể bị ép làm việc được.”
Tôi có thể chứng thực nhận định này.
Ở agency trước chúng tôi đã làm theo quy luật 20%. Do cam kết với khách hàng,
chúng tôi phải tính trước khi nào sẽ dùng ‘thời gian rảnh’. Nhưng chúng tôi
nhận ra khi đã hết quỹ thời gian, chúng tôi vẫn không có cảm hứng gì cả. Vì sự
sáng tạo không tuân theo quy luật nào mà mang tính bộc phát nhiều hơn.
Môi
trường làm việc hiện nay chính là sự xao lãng
Vấn đề ở trên là một chuyện,
nhưng không gian và sự cô độc cũng quan trọng
không kém.
Trong môi trường làm việc hiện nay,
bàn làm việc mà chúng ta buộc ở đó mỗi ngày nằm trong khu văn phòng mở. Từ bàn
làm việc, chúng ta có thể cùng lúc vừa thấy 40 hoặc thậm chí 100 người và vừa
phải đối thoại. Trong văn phòng thế kỷ 21, không gian cá nhân dường như quá xa
xỉ và tai nghe trở thành khái niệm “riêng tư” mới.
Đến một thời điểm nhất định, tôi có
thể âm thầm làm quen với những vấn đề khó chịu tại văn phòng. Tôi chủ yếu đấu
tranh với nỗi thiếu thốn cô độc. Trong văn phòng hiện đại, cảm giác bị quan sát
luôn luôn hiện hữu. Không quan trọng bao nhiêu lần tôi tự nhủ không ai để ý đến
mình cả, chỉ khi nào có bốn bức tường ngăn cách giữa tôi và các đồng nghiệp,
tôi mới cảm thấy bớt bất an. Chúng ta có thể đã trải qua sự lo lắng nơi công sở
này nếu được chỉ định ngồi cạnh bàn của sếp. Tôi thực sự có thể ngồi đây và xem
video TED dài 20 phút nói về kết nối giữa mô não và tâm trí không? Ai mà biết
liệu việc đó có liên quan đến dự án hay không? Chúng ta có thể không bao giờ
biết cho đến khi chúng ta dành thời gian để làm.
Với sự giám sát liên tục, công việc
của chúng ta dường như không đặt trọng tâm vào thành phẩm - kết quả từ những
việc ta làm, thay vào đó lại giống như duy trì hình ảnh của năng suất làm việc.
Có vẻ như tôi không đơn độc trong chuyện này. Lila MacLellan viết:
“Biết mình đang bị người khác theo dõi sẽ giới hạn mức độ sáng tạo trong
cách chúng ta giải quyết vấn đề, từ đó chúng ta sẽ năng suất hơn.” Hiện
tượng này, được gọi là Nghịch lý minh bạch, tiết lộ bởi Ethan
S. Bernstein khi ông lén đưa năm sinh viên Hardvard người Trung vào
một nhà máy có trụ sở tại Trung Quốc, họ đã báo cáo về những hành vi của các
đồng nghiệp trong thời gian có và không có sự giám sát.
Bernstein và các cộng sự Trung Quốc
quan sát thấy rằng “Trong môi trường đặc biệt này, và có lẽ ở nhiều nơi
khác, những gì mà quản lý thấy là không thật. Đó chỉ là một vở diễn thôi. Khi
khán giả biến mất, ‘vở diễn’ thật mới diễn ra và thú vị hơn nhiều.”
Designer thì khác công nhân nhà máy
nhưng điều đúng đắn mà tôi biết là khi ở một mình, tôi ít lo lắng nhất. Lo lắng
là kẻ thù của sự sáng tạo, tạo ra những nỗi sợ vô lý làm xao lãng khỏi tư duy
rõ ràng.
Một phần động lực của tôi để làm
việc tự do là giành lại một số nỗi cô độc đã mất và dần dần có một nơi của
riêng mình để làm việc.
Mỗi ngày tôi đều bị thôi thúc bởi ý
tưởng về một ốc đảo của riêng mình. Một căn phòng màu trắng tràn ngập ánh sáng
tự nhiên, mỗi bức tường là một tấm vải trống để thỏa trí tưởng trượng - một
chuỗi những ý tưởng, sáng kiến và trải nghiệm. Để có được một nơi như vậy hẳn
phải cần vài năm, nhưng tôi vẫn không thôi những ham muốn đó.
Lo lắng là kẻ thù của
sự sáng tạo, tạo ra những nỗi sợ vô lý làm xao lãng khỏi tư duy rõ ràng.
Hans Hartung trong phòng thu của anh
ở Antibes, Pháp.
Không có mấy cơ hội sở hữu một nơi thế này ở London.
Thế nhưng, liệu có thực sự cần tới
những biện pháp cực đoan như đi làm freelance để có được không gian riêng tư
mỗi ngày làm việc? Ở đâu trong văn phòng để chúng ta có thể trốn khỏi phiền
nhiễu và lo âu?
Tránh
xa khoảng “thời gian chết” mệt mỏi
Một phần quan trọng trong A
Technique for Producing Ideas (tạm dịch: Một kĩ thuật để sản sinh ý tưởng) của James
Webb Young là đặt vấn đề ra khỏi tâm trí bạn. Ông cho rằng một khi bạn
nghiên cứu về vấn đề đã xảy ra, điều quan trọng là để cho tiềm thức hình thành
các kết nối. Young đề xuất một số cách để đạt được điều này, bao gồm cả việc
làm một điều gì đó kích thích và tiếp sinh lực cho bạn. Giấc ngủ và thiền định
cũng có tác dụng tương tự.
“Đây là cách ý tưởng ập đến:
Bạn đã ngừng căng thẳng, thoát khỏi việc tìm kiếm,
và vừa trải qua một khoảng thời gian được nghỉ ngơi, thư giãn.”
Bạn đã ngừng căng thẳng, thoát khỏi việc tìm kiếm,
và vừa trải qua một khoảng thời gian được nghỉ ngơi, thư giãn.”
- James Webb Young
Công việc hiện đại không cho chúng
ta thời gian phục hồi và chánh niệm cần thiết để ý tưởng sản sinh. Một lần nữa,
chúng ta mong sẽ được làm điều đó ở nhà.
Tôi thường nghe “Tôi đã suy nghĩ
trong nhà tắm…“. Thật vậy, một số suy nghĩ quý giá nhất của tôi đã đến
trong lúc tắm. Vậy tại sao tôi tiếp tục tắm ở nhà? Lẽ ra tôi nên tắm ở chỗ làm
trong suốt ba giờ mới phải. Hoặc chúng ta thường nghe “Tôi đã mơ thấy ý
tưởng điên rồ này!“, nhưng trong văn phòng thì ngủ ở đâu?
Có nhiều nghiên cứu cho thấy sự cải
thiện trong cách giải quyết vấn đề sáng tạo xuất hiện ngay sau giấc ngủ REM
(tạm dịch: giấc ngủ mắt chuyển động nhanh). Ngay bây giờ tôi đang làm việc tại
văn phòng của một công ty nệm và vẫn không có nơi nào để ngủ. Khi tôi có được
studio của riêng mình, món đồ đầu tiên tôi mua sẽ là giường nệm. Ý tưởng ấy
nghe tuyệt diệu làm sao.
Chỉ có một người như Don Draper mới
dám
ngủ trưa trong giờ làm việc.
Bản quyền AMC.
Thiên nhiên cũng rất quan trọng đối
với sự sáng tạo nhưng tôi đã mất nhiều thời gian để nhận ra lý do tại sao.
Người ta nói dễ dàng cảm thấy mình là trung tâm của mọi thứ là một nơi lý tưởng
để tìm cảm hứng, nhưng tôi thấy điều ngược lại mới đúng.
Thiên nhiên giúp chúng
ta trở lại hình dáng nguyên thủy, không kéo căng hay gây căng thẳng mà chỉ để
chúng ta là chính mình. Và khi chúng ta trở về từ thiên nhiên, chúng ta sẵn
sàng hoàn thành mục đích của mình.
Thành phố ồn ào làm chúng ta uể oải.
Một sợi dây đàn hồi khi kéo quá xa quá lâu sẽ mất đi hình dạng ban đầu và phải
tốn công để trở lại như trước. Ở quá lâu trong thành phố cũng sẽ khiến chúng ta
trở nên như vậy.
Thiên nhiên giúp chúng ta trở lại
hình dáng nguyên thủy, không kéo căng hay gây căng thẳng mà chỉ để chúng ta là
chính mình. Và khi chúng ta trở về từ thiên nhiên, chúng ta sẵn sàng hoàn thành
mục đích của mình. Thế nhưng, trong văn phòng thời nay, cách chúng ta đến gần
nhất với thiên nhiên là từ hình nền máy tính.
Mùa hè ở South Coast. Trước lúc bình
minh
Chỉ
có chúng ta mới biết
Những người có quyền thay đổi văn
hóa công việc và xác định lại các tiêu chuẩn văn hóa của công việc hiện đại
không biết những điều designer cần. Các kiến trúc sư được thuê để thiết kế
không gian chúng ta sống mỗi ngày cũng không biết điều đó.
Chúng ta không thể để nhu cầu của
mình nằm trong tay người khác. Chúng ta phải yêu cầu, hoặc thiết kế cho chính
mình một môi trường giúp chúng ta làm việc tuyệt vời, hiệu quả và tốt hơn cho
tư duy sáng tạo của chúng ta.
Là designer, chúng ta được thuê vì
sự sáng tạo, vì nghĩ theo cách riêng không giống như đại đa số chỉ để chúng ta
biết làm thế nào để nuôi dưỡng sự sáng tạo cho chính mình.
Nguồn: iDesign
Tư duy thiết
kế không chỉ là một xu hướng nhất thời. Một số thương hiệu hàng đầu thế giới
như IBM, Apple và Google đã bắt đầu vận dụng tư duy thiết kế để ít “đoán mò”
hơn khi thiết kế sản phẩm và trải nghiệm tương thích với người dùng. Không giống
nhiều thập kỷ trước, kiểu tiếp cận sản phẩm đại trà, khuôn mẫu nay đã không còn
thành công.
Tư duy thiết kế là quá trình lấy con người làm trọng điểm. Quá trình này luôn được thực hiện liên tục để thấu hiểu người dùng hơn, thách thức các giả định và định hình lại vấn đề.
Nó
bao gồm năm giai đoạn chính: thông cảm, định
dạng, tưởng tượng, nguyên mẫu và kiểm tra.
Bước
đầu tiên - thông cảm - nói về khả
năng quan sát thế giới từ góc độ khác của những nhà nghiên cứu và designer. Để
làm được điều này, ta cần tạm thời gạt các ý tưởng định sẵn sang một bên, đặt
mình ở vị trí người dùng để hiểu hơn những ý tưởng, suy nghĩ và nhu cầu của họ.
Sự
thấu cảm có thể hơi trắc trở với một designer vì việc này không đơn giản như lẽ
“cảm nhận” thông thường. Đặt mình vào vị trí của người khác, nghe có vẻ dễ,
nhưng để không suy nghĩ hời hợt về tình cảnh của họ luôn cần thời gian, nỗ lực
và ý chí gạt bỏ cái tôi cố hữu.
Tuy vậy, đây không phải là một cuộc chiến
khó nhằn dai dẳng trong thời đại kỹ thuật số vì ta có thể nhờ đến công nghệ hỗ
trợ. Theo nhà nghiên cứu thiết kế Froukje Sleeswijk Visser, 4 bước để thúc đẩy
sự thấu cảm trong quá trình thiết kế là khám phá, chìm đắm, kết nối và tách rời. Cùng tìm hiểu chi tiết từng bước để hiểu tại sao đó là chìa khóa để
thực hiện sự đồng cảm trong quá trình thiết kế sản phẩm kỹ thuật số nhé!
“Tìm hiểu cảm
giác của người dùng để gieo sự kết nối là một công việc nghiên cứu thật sự.”
Khám phá
Bước đầu tiên để thúc đẩy sự đồng
cảm trong tư duy thiết kế là khám phá, tức là bước vào thế giới của người dùng.
Mục đích của việc này là để tìm hiểu về những khó khăn mà mọi người gặp phải
cũng như khám phá những nhu cầu, những mong muốn bất thành văn để giải thích
cho hành vi của họ.
Điều
cốt yếu ở đây là hấp thụ những gì mọi người đang trải qua, cảm nhận những gì họ
đang cảm thấy thay vì phản ứng và ngay lập tức cố gắng “giải quyết vấn đề.” Là
designer, mục tiêu của chúng ta là phát triển trực giác, vận dụng trí tưởng tượng
và thể hiện sự nhạy cảm về cảm xúc (mà không cần phải tò mò quá nhiều) để có được
những cái nhìn sâu sắc, phù hợp, từ đó tạo ra những sự khác biệt có giá trị.
Chìm đắm
Chìm
đắm là bước tiếp theo trong quá trình đồng cảm. Thay vì chỉ giới thiệu bản thân
với người dùng và thế giới của họ, bước này liên quan trực tiếp đến cuộc sống,
ngữ cảnh, hoạt động và môi trường của những người bạn đang tìm cách hiểu rõ
hơn. Mục tiêu của giai đoạn này là khám phá nhu cầu và cảm xúc vô hình nhằm chỉ
ra những thay đổi cần thiết trong sản phẩm mà chúng ta đang làm.
Mục tiêu của chúng ta là tìm hiểu họ là ai
trong khi khám phá nhu cầu của họ, là khi chúng ta chứng kiến các phản ứng cảm
xúc, ngôn ngữ cơ thể, bối cảnh và môi trường xung quanh của người dùng. Đây là
một công việc đòi hỏi quá trình nghiên cứu tỉ mỉ: Tìm
hiểu cảm giác của người dùng và từ đó gieo nên sự kết nối.
“Thấu rõ vấn đề chúng ta đang thực sự giải quyết
cũng quan trọng như cách chúng ta giải quyết nó.”
Kết nối
Tạo
sự đồng cảm với người dùng đòi hỏi nhiều hơn là lắng
nghe và bắt chước cuộc sống của
họ. Bằng cách giải thích thế giới của họ thông qua lăng kính về giá trị, lịch sử,
tôn giáo và văn hóa, chúng ta có thể tập trung suy nghĩ để bắt đầu thiết kế, vốn
rất cần thiết để xây dựng kết nối.
Ở
giai đoạn này, bạn muốn tỏ ra tò mò và chân thành, muốn có cảm giác và ý tưởng
cộng hưởng với người dùng. Để làm được điều đó, sẽ khá hữu ích nếu bạn nhớ lại
những trải nghiệm tương tự (hoặc khác biệt) để thực hiện những hành động thật sự
có ý nghĩa với bản thân. Bước này có thể xảy ra tự nhiên khi bạn đang thu thập
dữ liệu. Nếu bạn hiểu và định hình được bối cảnh cũng như cảm xúc của người
dùng, bạn sẽ chạm đến sự hiểu biết thấu đáo hơn.
Tách rời
Bước
cuối cùng trong khuôn khổ đồng cảm là tách
rời. Đây là khi bạn quay trở lại vai trò designer, bắt đầu suy nghĩ về những
gì bạn đã trải nghiệm và học hỏi để tạo ra ý tưởng. Đây là bước thiết yếu trong
quá trình tư duy thiết kế, thời điểm ngẫm nghĩ lại những gì đã học được từ việc
đồng cảm, từ đó tạo ra những thiết kế và ý tưởng hữu ích nhất.
Tiến
hành nghiên cứu kỹ lưỡng và có kế hoạch tốt cho phép chúng ta có sự đồng cảm. Bằng
cách sử dụng tính khách quan và diễn giải thấu đáo, chúng ta có thể tổng hợp
nghiên cứu và tìm hiểu những thông tin chi tiết thú vị có giá trị. Tìm điểm hấp
dẫn trong quan điểm (giữa sự đồng cảm và tính khách quan thuần túy) cho phép
chúng ta không chỉ tạo ra các sản phẩm giải quyết vấn đề mà còn hiểu tại sao
chúng ta đã tìm ra các giải pháp đó.Thấu rõ vấn đề chúng ta đang thực sự giải
quyết cũng quan trọng như cách chúng ta giải quyết nó.
Nguồn: iDesign